SỞ Y TẾ New Zealand thành công trong kéo giảm chi tiêu sử dụng thuốc - Sở Y Tế HCM

Thảo luận trong 'Tin tức của Sở Y tế' bắt đầu bởi Sở Y tế TP.HCM, 18/9/19.

  1. Sở Y tế TP.HCM

    Sở Y tế TP.HCM Bệnh viện Quận 4
      0/6

    Đã được thích:
    61
    Điểm thành tích:
    0
    Hệ thống chăm sóc sức khỏe của New Zealand, chủ yếu được ngân sách tài trợ từ nguồn thu thuế và cung cấp tất cả các loại thuốc miễn phí cho người bệnh trong thời gian điều trị tại bệnh viện và cho những người nhận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bên ngoài bệnh viện. Dưới đây là tóm lược những thành công trong kéo giảm chi tiêu cho sử dụng thuốc tại New Zealand qua chuyên đề “How New Zealand has contained expenditure on drugs” – BMJ - June 2010:


    Nhiều năm trước đây, sự gia tăng chi tiêu cho điều trị thuốc trong cộng đồng là một vấn đề lớn đối với Chính phủ New Zealand. Trong những năm 1980, chi tiêu của chính phủ cho các loại thuốc không dung trong bệnh viện đã tăng gần 15% mỗi năm, nhanh hơn bất kỳ thành phần nào khác trong chi tiêu chăm sóc sức khỏe.


    PHARMAC được thành lập vào tháng 6/1993 với mục tiêu đảm bảo kết quả sức khỏe tốt nhất từ việc điều trị thuốc trong cộng đồng, với nguồn ngân sách hiện có. Vai trò của PHARMAC không chỉ quản lý ngân sách sử dụng thuốc ở cộng đồng mà còn phải đảm bảo tối ưu sử dụng thuốc; đàm phán giá cả và điều khoản cung cấp cho một số loại thuốc bệnh viện; quản lý thuốc điều trị ung thư thiết yếu phải có sẵn cho người New Zealand; và quản lý các chương trình hoàn cảnh đặc biệt cung cấp tài trợ thuốc cho những người mắc bệnh hiếm gặp. PHARMAC được điều hành bởi chính phủ nhưng hội đồng độc lập chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Y tế và thay mặt cho 20 Hội đồng y tế quận về mua và cung cấp dịch vụ y tế.


    Khi một loại thuốc được chấp thuận để bán ở New Zealand, các công ty dược phẩm có thể đăng ký với PHARMAC để được xem xét. Vai trò quan trọng của PHARMAC là quyết định liệu một loại thuốc sẽ được chọn để bán lại với giá mà chính phủ sẵn sàng chi trả và các điều kiện tiếp cận. Trong môi trường cộng đồng, chỉ có các loại thuốc trong danh mục dược phẩm PHARMAC, nhận được tài trợ của chính phủ; Người New Zealand phải tự trả tiền cho các loại thuốc đã đăng ký khác. Bệnh nhân thường phải đồng thanh toán (3 đô-la New Zealand cho mỗi mặt hàng) cho mỗi loại thuốc được kê đơn trong danh mục, nhưng cũng có thể phải trả một khoản phí bổ sung nếu mức độ trợ cấp PHARMAC ít hơn hơn giá tính của công ty dược phẩm.


    Danh mục hiện có khoảng 2000 mặt hàng. PHARMAC sử dụng một quy trình nghiêm ngặt và được ghi chép đầy đủ để xác định loại thuốc nào được thêm vào danh mục thuốc quốc gia, đảm bảo kết quả tốt nhất cho nguồn ngân sách cho sử dụng thuốc có sẵn. Khi một công ty nộp đơn vào PHARMAC để được xem xét cho một loại thuốc mới, công ty sẽ gửi thông tin về chi phí và lợi ích. Thông tin này được đánh giá bởi ủy ban tư vấn về khoa học và trị liệu của PHARMAC, trong đó tư vấn liệu thuốc có nên được chọn hay không, mặc dù PHARMAC không bị ràng buộc chấp nhận các khuyến nghị của ủy ban.


    Quyết định có tài trợ ngân sách cho một loại thuốc mới hay không dựa trên 9 tiêu chí, bao gồm: nhu cầu về sức khỏe của mọi người dân; nhu cầu sức khỏe đặc biệt của người dân tộc thiểu số Maori và Thái Bình Dương (cả hai nhóm người dân tộc này đều có tình trạng sức khỏe thấp hơn so với những người New Zealand khác); tính khả dụng và tính bền vững của thuốc hiện có, thiết bị điều trị và các sản phẩm liên quan; lợi ích và rủi ro lâm sàng; chi phí - hiệu quả của việc đáp ứng nhu cầu sức khỏe bằng cách tài trợ cho việc sử dụng thuốc thay vì sử dụng các dịch vụ hỗ trợ sức khỏe và khuyết tật khác đã được ngân sách tài trợ; tác động lên ngân sách của bất kỳ thay đổi danh mục thuốc; chi phí trực tiếp cho người sử dụng dịch vụ y tế; chính sách ưu tiên của Chính phủ đối với tài trợ y tế; các tiêu chí khác mà PHARMAC cho là phù hợp (sau khi tham khảo ý kiến). Tuy nhiên, một trong những tiêu chí quan trọng vẫn là chi phí - hiệu quả. PHARMAC tính toán chi phí và lợi ích gia tăng (sử dụng tuổi thọ được điều chỉnh theo chất lượng cuộc sống hoặc QALYs) liên quan đến các loại thuốc mới so với thực hành lâm sàng hiện tại và dự kiến, bao gồm mọi chi phí của ngành y tế bị đảo ngược.6 Sau đó, ưu tiên các loại thuốc mới so với các chi phí tiềm năng khác hoặc mở rộng quyền tiếp cận vào các loại thuốc đã được tài trợ.


    PHARMAC sử dụng một số quy trình để quản lý giá thuốc trong danh mục. Các công ty dược phẩm đàm phán với PHARMAC về giá cả và các điều kiện tiếp cận khác, khuyến khích cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. PHARMAC sử dụng giá tham chiếu cho các thuốc có cùng tác dụng hoặc tương tự, buộc các nhà cung cấp phải đưa ra giá thấp nhất cho một nhóm thuốc hoặc bác sĩ GP sẽ chọn một loại thuốc khác vì bệnh nhân phải trả chi phí bổ sung nếu giá thực tế của thuốc cao hơn mức chi trả của chính phủ.


    PHARMAC khuyến khích phát triển thuốc generic bằng cách đấu thầu cạnh tranh để giành quyền cung cấp độc quyền, trong một thời gian hạn chế, một khi bằng sáng chế thuốc hết hạn. PHARMAC cũng tham gia vào việc chia sẻ rủi ro, giao dịch đa ngành với các công ty dược phẩm và thỏa thuận đặt ra các khoản chi tiêu hoặc giảm giá, chia sẻ rủi ro với các công ty dược phẩm về khả năng hấp thụ một loại thuốc cụ thể. Kết quả là đã tiết kiệm được một số loại thuốc trong số các chính sách này, với statin hiện chỉ bằng một nửa chi phí so với tại Úc, và giá fluoxetine đã giảm từ 1,92 đô la mỗi viên 20 mg vào năm 1993 xuống còn 0,05 đô la mỗi viên vào năm 2004. Một phân tích gần đây của chính phủ Canada cho thấy giá thuốc generic ở New Zealand chưa bằng 1/4 giá ở Canada và thuốc được cấp bằng sáng chế rẻ hơn 20%.


    PHARMAC đã tiết kiệm cho ngân sách đáng kể về chi tiêu cho sử dụng thuốc và tăng trưởng chi tiêu đã chậm lại, kể từ khi nó được thành lập vào năm 1993. PHARMAC đã tuyên bố tiết kiệm 3,1 triệu đô-la trong năm đầu tiên so với xu hướng trước đó và đã giảm một nửa mức tăng trưởng của chi tiêu thuốc (khoảng 5% một năm). Tiết kiệm tích lũy ước tính của PHARMAC cho năm kết thúc vào tháng 6/2006 là 1.032 triệu đô-la, được dự đoán sẽ tăng lên 1.250 triệu đô la cho năm kết thúc vào tháng 6/2008. Báo cáo của Kho bạc New Zealand từ năm 1994 đến 2008 , ngân sách thuốc cho cộng đồng tăng với tỷ lệ trung bình hàng năm là 2% (so với 15% trong những năm 1980).

    Dữ liệu của các nước thuộc tổ chức OECD cho thấy tỷ lệ chi tiêu dược phẩm của New Zealand so với của tổng chi cho các dịch vụ y tế (công và tư) đã giảm sau khi PHARMAC được thành lập vào năm 1993, trong khi chi tiêu đó tăng ở các nước khác. Đến năm 2007, tỷ lệ chi tiêu thuốc trong tổng chi cho y tế thấp hơn nhiều so với các nước OECD khác.


    Mặc dù chi tiêu thuốc tăng thấp, nhưng số lượng thuốc trong danh mục thuốc đã tăng thêm 188 mặt hàng trong khoảng thời gian từ tháng 6/1993 đến 2007. Số lượng đơn thuốc cũng tăng từ khoảng 18 triệu vào năm 1993 lên gần 32 triệu trong năm 2007, mặc dù đã giảm các khoản đồng thanh toán trong 7 năm qua. Chi phí trung bình cho mỗi đơn thuốc vào năm 1993 tại New Zealand là 24,30 đô la, nhưng đến năm 2007, giảm xuống còn 19 đô-la.

    [​IMG]

    New Zealand thành công trong kéo giảm chi phí sử dụng thuốc

    (Ảnh trái: tổng chi phí sử dụng thuốc trong cộng đồng; Ảnh phải: tỷ lệ chi phí sử dụng thuốc trong tổng chi tiêu cho y tế)

    SỞ Y TẾ TP.HCM

    Xem thêm...
     
    Đang tải...

Chia sẻ trang này